Những nỗ lực tái định hướng của nhà tâm lý học trong cuộc trò chuyện đối với những lựa chọn trong tương lai có thể bị bệnh nhân coi là không công bằng và có định kiến. Chẳng hạn như những khám phá về sự không chung thủy hiện nay thường do một bên đọc được thư từ điện tử do phía kia tình cờ để lại trên máy vi tính của gia đình (đây là một sự biến dạng của những cuốn nhật ký truyền thống bị đọc trộm xưa kia). Ta từng hấp thu quan điểm cho rằng số phận của mình hình thành từ những trải nghiệm của thời thơ ấu.
Đây chính là điều tôi đã nói với họ: Điều tốt lành là chúng ta có những cách điều trị có hiệu quả cho những triệu chứng tuyệt vọng, tin tức tồi tệ là thuốc men vẫn không khiến cho bạn hạnh phúc được. Người ta tự hỏi là tình yêu vô tận và luôn tươi mới ở đâu rồi? Con người thường đổ lỗi cho thất bại của mình.
Dự định hay điều ước có thể để giải trí nhưng bạn không nên nhầm lẫn nó với thực tại cuộc sống. Tôi khoanh vùng cuộc tranh luận này trong sự thực dụng hơn là mang tính lý thuyết: «Tôi không có câu trả lời có thể áp dụng cho mọi mối quan hệ; tôi tin vào những gì có hiệu quả. Tuy nhiên, với tôi thế là đủ.
Người này có thể là cha hay mẹ, người yêu đầu tiên hoặc một người bạn mà không còn nữa. Những định hướng sai lầm nhất trên tấm bản đồ cuộc đời của chúng ta chính là cảm giác buồn rầu, sự giận dữ, sự phản bội, sự nhạc nhiên và sự mất phương hướng. Socrates đã ngầm ám chỉ điều này khi ông nói: «Cuộc sống mà không có sự tự kiểm soát là không đáng sống».
Nếu chúng ta còn có bổn phận nào khác với con cái mình thì chính là chúng ta cần phải thuyết phục được chúng rằng mình có thể giành được hạnh phúc dù có phải chịu mất mát và bất ổn vốn chứa đựng trong cuộc sồng. Đây chính là cuốn sách mà tất cả chúng ta đều có thể tiếp cận khi chúng ta cần một giọng nói quan tâm – như tôi thường lần giở tập thư điện tử và thư qua bưu điện – khi tôi cần một giọng nói chắc chắn và đáng tin cậy, đầy hy vọng nhưng không phải lúc nào cũng sẵn lòng đưa ra sự bảo đảm. Tự sát là một loại lời nguyền vĩnh viễn đối với tất cả những ai yêu quí chúng ta.
Nếu chúng ta tiếp nhận sự dễ chịu và ý nghĩa từ một niềm tin tôn giáo nào đó với những hứa hẹn về cuộc sống vĩnh cửu thì còn tốt hơn nhiều. Không có đứa trẻ nào có thể trốn chạy mà không bị thương tổn khỏi sự lạm dụng hay thờ ơ của cha mẹ. Họ chấp nhận rằng tiến trình mà chúng ta bị lôi cuốn lại với nhau là huyền bí và không thể giải thích được.
Liệu có đáng không khi mà chúng ta từ một tình trạng hoàn hảo, trần truồng và bất tử biến thành những người phải lao động và biết xấu hổ? («Con chỉ có thể ăn miếng bánh mì có được từ mồ hôi chảy ròng trên mặt con»). Điều này là thông thường thôi, do đó, mọi người có xu hướng «quên» các cuộc hẹn của họ. Hãy nghĩ đến những vấn đề về giao thông nếu tất cả chúng ta đều thích việc đó, có sao đâu!
Khi cô ta không đến, tôi đã gọi cảnh sát đến nhà cô ấy và họ tìm thấy xác cô. Cái cách mà mọi người đến với nhau và lựa chọn lẫn nhau đã khiến người ta coi sự kết hợp giữa lôi cuốn về mặt tình dục và một loạt lợi ích tự thân là quan trọng; nó giúp người ta đi đến đánh giá người khác qua một loạt những phẩm chất và thành tựu: giáo dục, khả năng kiếm tiền, những lợi ích có thể chia xẻ cùng nhau, sự đáng tin cậy và cách nhìn cuộc sống. Trong thế giới chúng ta đã xảy ra những điều không thể nào tưởng tượng nổi như vậy đấy.
Thuốc men truyền thống thường thất bại khi nó làm tăng cảm giác vô dụng trong khi đối mặt với tình trạng ốm yếu bệnh tật. Nếu người tôi đang cùng làm việc khiến tôi nhớ đến bố mẹ tôi hay một người mà tôi có mâu thuẫn, hoặc một cô gái đã từng từ chối tôi khi tôi còn trẻ, tôi biết là mình đang ở vào một chỗ nguy hiểm. Nhiều người trong chúng ta sợ liều lĩnh và thích sự rõ ràng, sự việc có thể dự đoán được và sự lặp đi lặp lại.
Trong thực tế, tôi có quan điểm rằng người già phải có bổn phận để chịu đựng những mất mát trong tuổi già với sự lòng quyết tâm và can đảm khi họ còn có thể đương đầu được để tránh sự bất tiện cho những người thương yêu họ. Cho nên chính chúng ta là người lựa chọn những người mà chúng ta sẽ sống cùng. Một vài đánh giá về sự ngoại tình trong hôn nhân vào tuổi bốn mươi thường đưa ra con số khoảng 50 đến 65 phần trăm đàn ông và 35 tới 45 phần trăm đàn bà đã có gia đình.