Nhưng vì đã hiểu (tức là tư tưởng của người đọc và người viết đã hoà quyện thành một) thì còn phần tư tưởng nào đưa người đọc đến những quyết định độc lập? Đến đây, chúng tôi đã hoàn thành phần bàn luận về cấp độ đọc thứ hai - đọc kiểm soát. Đôi khi, chúng ta buộc phải chấp nhận thực tế rằng có các tác giả sẽ không đưa ra câu trả lời nào cho một hoặc hơn một câu hỏi của chúng ta.
Việc chuẩn bị cho đọc đồng chủ đề tức là đọc soát qua một lượt các cuốn sách trong thư mục của bạn dường như cũng có thể được tiến hành đồng thời với việc đọc phân tích. Ví dụ như trường hợp của sử gia Thucydides. Một câu chuyện hay, làm cho người đọc thoả mãn thường có sự công bằng đó.
Đặc biệt, có hai thứ mà một cuốn bách khoa toàn thư không nói đến. Họ cho rằng tất cả các bất đồng đều xuất phát từ hiểu lầm. Đó là khi đọc, chúng ta phó mặc sự chọn lọc thông tin cho phóng viên.
Tất nhiên, hai tác giả cũng sẽ sử dụng các phương pháp hoàn toàn khác nhau để giải quyết những vấn đề không giống nhau đó. Dấu hiệu đầu tiên và rõ ràng nhất là việc tác giả nhấn mạnh một cách dứt khoát vào những từ cụ thể. Nếu bạn không theo tín ngưỡng đó, không là con chiên của nhà thờ đó, bạn khó có thể đọc tốt một cuốn sách thần học giáo điều bằng cách xem các tín điều trong sách giống cách bạn nhìn nhận những giả thuyết của một nhà toán học.
Aristotle gọi cuốn Physics (Vật lý) của ông là một chuyên luận khoa học, mặc dù theo cách dùng hiện nay thì cuốn sách đó mang tính triết học nhiều hơn. Đọc to từng từ sẽ buộc bạn hiểu cặn kẽ hơn ý nghĩa của chúng. Khi bạn áp dụng quy tắc này và ba quy tắc trước đó, chắc chắn bạn sẽ hiểu được nội dung cuốn sách.
Tuy nhiên, một tác giả phân biệt rõ ràng các nghĩa khác nhau của từ mà mình sử dụng thì chắc chắn tác giả đó đang đưa ra các thuật ngữ. Hãy đọc chậm rãi và diễn cảm như thể đang có một thính giả nghe bạn và hãy cố gắng hiểu rõ từng từ ngữ bạn đang đọc. Ví dụ các câu hỏi mang tính lý thuyết sau: Vấn đề đó có tồn tại không? Nó thuộc loại nào? Tại sao nó tồn tại? Nó có thể tồn tại trong điều kiện nào? Nó phục vụ mục đích gì? Hậu quả do sự tồn tại của nó gây ra? Những thuộc tính đặc trưng của nó là gì? Mối liên hệ giữa nó và những vấn đề khác cùng loại hoặc khác loại như thế nào? Nó sẽ diễn biến ra sao? Hoặc những câu hỏi mang tính thực hành như: Nên tìm kiếm những mục tiêu nào? Lựa chọn phương tiện nào cho một mục đích cụ thể? Phải làm gì và theo trình tự nào để đạt được mục đích nhất định? Trong điều kiện hiện tại, làm thế nào là đúng hoặc tốt hơn nên làm gì? Trong hoàn cảnh nào thì làm việc này tốt hơn làm việc kia?
Nhưng chúng tôi tin rằng trong vòng mười phút, nếu muốn, chúng tôi và Aristotle có thể đàm luận với nhau về những vấn đề triết học đôi bên cùng quan tâm. Nếu một câu được hỏi rõ ràng và chúng ta biết chắc các tác giả sẽ trả lời nó theo những cách khác nhau có nghĩa là ta đã tìm ra một vấn đề. Những nhân vật của anh ta sử dụng từ ngữ mà chúng ta vẫn thường dùng, nếu không thì ta sẽ không tin họ.
Quy tắc đọc phân tích này phù hợp với tất cả các loại sách mô tả và đặc biệt phù hợp với các loại sách khoa học và sách toán học. Sai lầm này dù xuất phát từ nguyên nhân gì cũng cho thấy tác giả đã ngộ nhận mình có kiến thức trong khi thật sự anh ta không hề có. Ba quy tắc đọc phân tích về thuật ngữ, nhận định và lập luận nêu trên đều nhằm phục vụ cho quy tắc 8 - bước cuối cùng trong quá trình làm sáng tỏ nội dung một cuốn sách.
Bạn nên lưu ý đến mối quan hệ mật thiết giữa đọc và nghe. Các nhà phê bình văn học đã tán thành hay phản đối cuốn sách này mà không hề nhận ra rằng những nguyên tắc chính được Aristotle áp dụng khi phân tích thơ phụ thuộc một phần vào những điều đã nêu trong một số tác phẩm khác, trong các luận thuyết về tâm lý, logic và siêu hình học của ông. Bạn không cần phải nhớ toàn bộ tên các nhân vật, rất nhiều trong số đó chỉ đơn thuần làm nền cho các nhân vật chính.
Mong muốn ấy nhiều khi nằm trong tiềm thức mà họ không nhận biết được. Hãy nhớ là bách khoa toàn thư cung cấp cho ta rất nhiều dữ liệu được sắp xếp liên quan đến nhau. Nhận định và lập luận là những đơn vị logic, hay đơn vị tư duy và tri thức.