Nếu quan sát một ngôn ngữ nào đó, ta sẽ thấy, rằng các ngôn từ hợp nên ngôn ngữ đó biến đổi tương đối chậm theo thời gian; nhưng những hình ảnh nó gợi lên hoặc những ý nghĩa người ta đặt đằng sau nó lại biến đổi không ngừng. Không bao giờ họ mặc cả sinh mạng của mình trong một cuộc khởi nghĩa; mới chỉ vài năm cách đây không lâu, một ông tướng (tướng Boulanger) bỗng nhiên được nhân dân yêu mến, một khi ông ta đòi hỏi, dễ dàng có hàng ngàn người sẵn sàng chém giết vì sự nghiệp của ông ta. Đó cũng là điều không có trong các trường hợp phạm tội thông thường.
Những cá thể tập hợp nên đám đông sẽ bị tước đi toàn bộ ý chí và quay theo một cách bản năng kẻ sở hữu ý chí. Sự giác ngộ và niềm tin của đám đông chỉ lan tỏa được bằng con đường truyền nhiễm, không bao giờ bằng những lập luận của lý trí. Quyền lực vô biên của một kẻ thống trị tùy tiện nhất cũng chỉ đủ để thúc đẩy hoặc ngăn cản chút ít cái thời điểm xảy ra.
Sở dĩ như thế bởi vì, loài người, từ khi nó xuất hiện trên thế giới này, có hai nhiệm vụ vĩ đại là tạo nên một mạng lưới những truyền thuyết và xóa bỏ chúng khi đã hết tác dụng. Chúng ta sẽ tiến hành giống như khi nghiên cứu về tự nhiên, bằng cách đầu tiên ta miêu tả những đặc tính chung của các thành viên trong một chủng trước khi xem xét đến những đặc tính riêng của từng thành phần, điều này giúp cho việc phân biệt được các giống và loài của chủng đó. Nếu người ta đọc nó, họ sẽ không tìm ra được những lý giải có thể chấp nhận tương xứng với vai trò cực kỳ to lớn của một nhà chuyên chế đầy quyền lực:
Sự khẳng định càng chắc nịch, càng ít nguyên do hoặc bằng chứng, nó sẽ càng tạo nên nỗi kính sợ. tất cả đều là những hiện tượng cùng loại dưới tác động của tình cảm tôn giáo, nó cần thiết để hủy diệt tất cả, bằng lửa và bằng gươm đao, những gì cản trở sự truyền bá một niềm tin mới. Tổ chức làm gia tăng sức mạnh của họ một cách khủng khiếp.
Ở họ sự yêu mến nhanh chóng trở thành sự tôn sùng, sự ác cảm vừa mới này sinh đã lập tức biến thành sự căm thù. Chính vì thế đám đông thường bị những mặt diệu kỳ và huyền thoại của các sự kiện tác động mạnh mẽ nhất. Chỉ có những ấn tượng người ta cấy đặt vào tâm hồn của họ mới có thế quyến rũ họ mà thôi.
Môi trường, các hoàn cảnh, các sự kiện phản ánh lại những tác động xã hội nhất thời. Chính những đám đông, và cụ thể là những đám đông được hợp thành từ các giai cấp, là những kẻ bảo vệ một cách kiên trì nhất những ý tưởng được lưu truyền và chống lại sự thay đổi các ý tưởng đó một cách ngoan cố nhất. Trong quốc hội ta cũng tìm thấy lại những đặc tính của đám đông, đó là: tính phiến diện của các ý tưởng, tính dễ bị kích động, tính dễ bị lôi cuốn, tính dao động mạnh về tình cảm, chịu ảnh hưởng quá lớn của lãnh đạo.
Sự ra đời của quyền lực đám đông bắt đầu trước hết từ sự lan truyền của những luồng tư tưởng nào đó, chậm chạp chiếm cứ đầu óc mọi người, sau đó qua sự kết hợp dần dần từng con người một để hiện thực hóa những quan điểm cho đến lúc này vẫn còn là lý thuyết. Sự giác ngộ và niềm tin của đám đông chỉ lan tỏa được bằng con đường truyền nhiễm, không bao giờ bằng những lập luận của lý trí. Dân chúng như vậy tuyệt nhiên không hề có quyền lực để thực sự thay đổi các thể chế.
Sự thống trị của nó đối với tâm hồn không hề có giới hạn. Nếu cơ quan trong cơ thể con người liên tục tiếp nhận sự giận dữ, như thế ta có thể coi giận dữ là trạng thái bình thường của đám đông bị dồn nén. Sự bộc phát của lòng công phẫn và hành động phá hoại luôn chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn.
Giá trị của một ý tưởng xếp theo thứ bậc là hoàn toàn vô nghĩa; chỉ có tác động của nó mới thực sự là điều cần phải để ý. Về mặt ý tưởng, đám đông cũng luôn lạc hậu hơn nhiều thế hệ so với những nhà khoa học và triết học. Màn bi kịch làm say sưa một đám đông của một vùng nào đó, thường lại không thành công hoặc thành công rất hạn chế ở một vùng khác, bởi nó không đủ sức để lôi cuốn đám khán giả mới[6].
Bởi đám đông sau một khoảng thời gian bị kích thích sẽ rơi vào trạng thái của một người máy đơn giản và vô thức, nó nằm dưới sự tác động của các ảnh hưởng, vì vậy có vẻ như rất khó có thể gọi tên nó là đám đông tội phạm trong bất kỳ một trường hợp nào. Các nhà triết học và các nhà sử học đã cố gắng một cách tuyệt vọng để chứng minh sự vô nghĩa của nó. Người ta không cần đến một lần hạ thấp mình xuống như một người nguyên thủy để mới có thể hiểu được sự bất lực của lôgic trong cuộc chiến chống lại tình cảm.