Nếu không có sự mất cân bằng trong chuyển tải vấn đề giữa tác giả và độc giả, thì con người không bao giờ có thể học hỏi lẫn nhau. Trong các lập luận, bao giờ cũng có những quãng dừng. Dựng hình rất cần thiết cho việc chứng minh các định lý.
Vì thế, bạn nên thận trọng khi áp dụng câu hỏi ý nghĩa của cuốn sách là gì vào các tác phẩm văn học hư cấu. Để hiểu được những luận cứ quy nạp trong sách khoa học, bạn cần phải tìm hiểu các dẫn chứng cơ bản mà nhà khoa học đưa ra. Nhưng trước khi đi vào vấn đề, chúng tôi muốn cùng bạn xem lại câu hỏi cơ bản thứ tư cần phải đặt ra khi đọc bất kỳ cuốn sách nào.
Mặc dù Tolstoy không phải là nhà sử học mà là một tiểu thuyết gia, nhưng nhiều nhà sử học cũng có chung quan điểm này với ông, đặc biệt là trong xã hội hiện đại. Tác giả Gibbon đã viết một cuốn sách nổi tiếng về Đế chế La Mã, mang tên The Decline and Fall of the Roman Empire (Sự suy tàn và diệt vong của Đế chế La Mã). Do đó, khi bàn luận về các quan điểm của một bộ phận nhỏ tác giả, chúng ta không thể dùng từ sự tiến bộ ngay cả khi các tác giả trong nhóm đó dùng từ này.
Ngay cả những độc giả giỏi nhất vẫn tiếp tục luyện đọc ở cấp độ sơ cấp khi có cơ hội. Tiếp theo là quy tắc 5 của quá trình đọc phân tích: TÌM CÁC TỪ QUAN TRỌNG VÀ QUA ĐÓ ĐI ĐẾN THỐNG NHẤT THUẬT NGỮ VỚI TÁC GIẢ. Nếu không đọc liền mạch bài thơ, chúng ta sẽ không thể nhìn ra sự thống nhất đó.
Nếu không thì có thể tác giả đã nêu ra trong phần giới thiệu đầu sách. Hoặc nó bắt đầu bằng các dẫn chứng và lý lẽ để từ đó suy ra kết luận. Một nguyên nhân khác là họ đã không đọc những cuốn sách khác có liên quan chặt chẽ tới cuốn sách trước khi bắt đầu đọc nó.
Dù tác giả nói hoặc không nói cho độc giả biết các câu hỏi đó là gì và có thể họ cũng không đưa ra câu trả lời, thì độc giả vẫn phải dựng lại câu hỏi một cách chính xác nhất có thể. Bất cứ lúc nào, các quy tắc áp dụng cho việc đọc một tác phẩm văn học lớn nên để lại tác động hoặc hiệu quả nào đó ở người đọc như một trải nghiệm sâu sắc. Trẻ cần đạt đến giai đoạn đọc chín chắn này khi ở tuổi vị thành niên.
Đây là những từ được dùng để gọi tên các thực thể hình học mà Euclid đã định nghĩa. Mặc dù vậy, điều này không có nghĩa nhận định thế nào cũng đúng. Cũng vì mỗi từ là một dấu hiệu nên chúng ta có thể phân biệt được danh từ riêng, danh từ chung, từ cụ thể, từ trừu tượng…
Có thể tìm ra lịch sử của mỗi từ thông qua các tiền tố, hâu tố hoặc các từ gốc ban đầu cấu tạo nên nó. Điều gì liên quan đến sự thay đổi? Trong quá trình biến đổi, có điều gì không thay đổi cũng như có khía cạnh nào của vật không thay đổi đó chịu sự thay đổi không? Khi bạn học được một điều mà trước đây bạn chưa biết, chắc chắn bạn sẽ thay đổi một chút nào đó về kiến thức nhưng bạn vẫn chỉ là bạn như trước đây. Các triết gia không làm việc trong phòng thí nghiệm, cũng không nghiên cứu thực địa.
Ngữ pháp và logic gắn kết với ngôn ngữ nhờ mối liên hệ với tư duy, và gắn kết với tư duy nhờ mối liên hệ với ngôn ngữ. Chỉ riêng chủ đề của cuốn sách là khủng hoảng môi trường cũng đủ nói lên điều này. Thí nghiệm mà các tác giả trên nói đến chưa chắc đã được họ thực hiện trong phòng thí nghiệm.
Số sách viết về cách đọc Kinh Thánh nhiều hơn tổng số sách viết về tất cả các khía cạnh khác của nghệ thuật đọc sách. Ví dụ, ta không thể kiểm tra tính chân thực của tác phẩm Othello dựa trên kinh nghiệm của bản thân, trừ khi chúng ta thuộc dòng họ Moors và kết hôn với một quý cô người Venetian. Giả sử bạn là một triết gia đang băn khoăn với một trong những câu hỏi đơn giản của con trẻ như nói ở trên, bạn sẽ trả lời thế nào?