Nhưng thực ra, chủ nghĩa giáo điều chỉ là những ngục tù của khái niệm. Hình thức của cuốn sách này có thể xem như là một sự phục hưng, trong thời hiện đại, của một thể loại dùng để ghi chép những giáo lý cổ điển. (29) Ảo tưởng về một “cái Tôi” ở trong mình: Chúng ta tin rằng có một “cái Tôi” hiện hữu, độc lập, không dính líu gì với cuộc đời.
Khối khổ đau này rất thích những ý tưởng tiêu cực ở trong bạn, vì những ý nghĩ này có cùng tần số và vì khối khổ đau đó của bạn được nuôi sống bằng những suy nghĩ tiêu cực ấy. Khi không bị che chắn bởi hàng rào của khái niệm, lòng xót thương sẽ có mặt một cách tự nhiên trong tất cả những quan hệ của bạn. Đó chính là Tâm, một cái gì rất chân thật, sâu xa, vượt thoát cả quá khứ và tương lai.
Sự an nguy của người kia chính là sự an nguy của ta. Khi bạn nhận thức rằng mình chính là cái Tâm đó, thì bạn sẽ nhận ra mình trong tất cả. Do đó, người hấp hối sẽ rất bất an, bối rồi vì không làm được gì để giúp cho nỗi khổ của người thân; nên họ sẽ không dễ dàng siêu thoát, hoặc sẽ thiếu sáng suốt để chọn con đường lành khi đi đầu thai.
Cuốn sách này, lẽ đương nhiên, cần sử dụng ngôn từ mà khi đọc lên sẽ tạo thành những ý tưởng ở trong đầu bạn. Rồi đi sâu thêm một bước nữa: chấp nhận rằng bạn không thể làm gì được với tình trạng người kia đang hấp hối, và chấp nhận đìều ấy hoàn toàn. Trong những bài thuyết giảng trên khắp thế giới, ông chỉ muốn truyền đạt một thông điệp rất giản dị, nhưng sâu sắc, và bất tử của các bậc giác ngộ từ xa xưa rằng: Có một con đường thoát khổ và một phương pháp thực tập để tìm lại được niềm an lạc có sẵn trong mỗi người.
Mọi chuyện sẽ bớt đi sự nặng nề và nghiêm túc. Đó là niềm vui của an nhiên tự tại – an nhiên tự tại vì đã biết được bản chất chân thực của mình. Bạn không bao giờ tách biệt khỏi thiên nhiên.
Đây chỉ là biểu hiện của cái Tâm vô hình, vô tướng, bản chất chân thực của bạn. Nhưng bạn nhầm lẫn “cái Tôi quý báu ấy” với tên gọi, hình tướng và với những câu chuyện về chính mình (68) mà bạn đã tự thêu dệt nên. Vì trong chiều không gian đó, bạn nối kết với nhau thành một trường ý thức, một tâm thức đồng nhất (56).
Mỗi tế bào đều đang sống trong hiện hữu, trong trạng thái bạn không cần phải suy tư. Và trong tình trạng djdó, bạn sẽ không tạo nên một nhân cách nào cho người đó cả. Đây cũng là phương cách để bản ngã của bạn trở thành hiện hữu và tiếp tục được tồn tại ở trong bạn.
Đó cũng là lý do bạn có thể đạt đuợc niềm an lạc sâu nhất trên đời chỉ có thể đến với bạn qua chiêm nghiệm và chấp nhận cái Chết. Ngoài ra bản ngã ở trong ta còn có thêm một nhu yếu thường trực: thích tạo nên những vấn đề, những xung đột với ai đó, hay với một chuyện gì, để củng cố thêm cảm nhận về sự cách biệt giữa mình và “những người khác”, vì nếu không có sự phân biệt này thì bãn ngã của bạn sẽ không thể tồn tại được. Bạn cũng sẽ cảm thấy rằng vật ấy rất linh động, chứ không phải là một cái gì chết cứng, vô tri…như cảm nhận sai lầm của giác quan của bạn.
(27) Than phiền và phản kháng là hai thói quen cư xử khá phổ biến của trí năng: Chúng ta có thói quen than phiền và phản kháng về vợ hay chồng mình vì khi làm như thế, chúng ta ngụ ý rằng :Tôi không bết bát, dở haơi như cô ấy/anh ấy đâu!” Bạn không có sự chủ động về những gì sẽ xảy đến cho người ấy đâu. Rồi đi sâu thêm một bước nữa: chấp nhận rằng bạn không thể làm gì được với tình trạng người kia đang hấp hối, và chấp nhận đìều ấy hoàn toàn.
(10) Tâm thức chưa-bị-trói-buộc: Là khả năng nhận thức nguyên sơ, rộng lớn, khoáng đạt ở trong mình. (14) Những tình huống của cuộc đời bạn được phơi bày: lấy nhau, sống chung, mất việc làm, gặp khó khăn, ly dị… Vì dụ khi có một cảm giác khổ sở, bất hạnh đang phát sinh ở trong lòng, ta không dừng lại ở chỗ “Ồ có một cảm giác bất hạnh đang có mặt ở trong lòng tôi”, mà chúng ta nhanh chóng đồng hoá mình với cảm giác bất hạnh ấy và tự kết luận rằng “Tôi là một kẻ bất hạnh” hay tệ hơn nữa, “Tôi chính là sự bất hạnh của cuộc đời”.