Bạn sẽ không theo được tính liền mạch và trình tự nội dung cuốn sách nếu ngay từ đầu đã phải tra quá nhiều từ. Ví dụ, nếu nhìn thấy Aristotle đi cùng một phiên dịch biết cả tiếng Anh hiện đại và tiếng Hy Lạp cổ, chúng tôi sẽ không thể hiểu nổi ông ta và ông ta cũng vậy. Ở khả năng thứ hai, mỗi từ có thể dùng để diễn giải nhiều thuật ngữ.
Nếu ta không động chạm gì tới cách thức tác giả trình bày nội dung, ta sẽ không hiểu gì về cả hai mặt này. Mọi người, nhất là người đã trưởng thành, thường xấu hổ khi học trượt tuyết. Các lý lẽ có thể là những lập luận đơn lẻ mà nếu bạn tìm thấy, bạn sẽ khó bỏ qua những chuỗi câu dài hơn.
Tiêu đề một tác phẩm khoa học ít có tính biểu lộ như tiêu đề một cuốn sách sử học. Nếu bạn đã biết hoặc nghi ngờ mình sai thì dù có giành phần thắng trong cuộc tranh luận cũng chẳng ý nghĩa gì. Nhưng khi đã lớn, chúng ta vẫn thắc mắc về sự khác nhau đó.
Ví dụ, một người biết và am hiểu một số dữ kiện về lịch sử nước Mỹ, theo một luồng tư tưởng nào đó, có thể dễ dàng đọc để thu thập thêm thông tin và vẫn hiểu các thông tin theo cách tương tự. Bước cuối cùng trong nỗ lực khám phá nội dung sách là tìm ra những vấn đề lớn mà tác giả cố gắng giải quyết. TỪ LÀ THÀNH PHẦN CẤU TẠO NÊN CÂU - mỗi một từ đơn giữ một vai trò ngữ pháp nhất định trong một cụm từ hoặc câu.
Nếu muốn trình bày ý tưởng một cách độc đáo, mới lạ, tác giả sẽ sử dụng một số từ trong hệ thống này theo cách đặc biệt, còn những từ khác vẫn được dùng theo cách thông thường. Nền văn minh Trung cổ chủ yếu dựa trên văn nói vì sách thời đó rất hiếm và khó tìm. Để làm được như thế, cách duy nhất là sử dụng ngôn ngữ điêu luyện hết mức có thể khi truyền đạt hay thu nhận kiến thức.
Họ đã cố gắng tổ chức triết học giống như cách họ làm với toán học. Tuy nhiên, có một bước còn cao hơn thế, và chỉ độc giả nào thật sự có tài mới có thể làm được khi anh ta đọc đồng chủ đề. Nhưng như ta đã lưu ý trong Chương 2, các cấp độ đọc mang tính tích luỹ.
Hai quy tắc 2 và 3 còn được dùng để phân biệt sách hay và sách dở. Các nhà triết học khác như Cicero và Berkeley cũng đã cố gắng dùng đối thoại nhưng không mấy thành công. Hoặc nó bắt đầu bằng các dẫn chứng và lý lẽ để từ đó suy ra kết luận.
Nếu mọi từ trong cuốn sách bạn đang đọc đều xa lạ đối với bạn, như trường hợp bạn đọc một cuốn sách hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài, thì bạn sẽ chẳng bao giờ tiến bộ được. Vì đây là giới hạn cuối cùng có thể thấy được nên tất cả các phương diện giao tiếp khác đều phải phục vụ mục đích này. Các phân tích của ông cần phải được mở rộng cho phù hợp với thực tế của nền chính trị.
Chúng tôi cũng xin lưu ý rằng, nhu cầu đọc sách trong mối liên hệ qua lại được áp dụng vào đọc sách lịch sử và triết học nhiều hơn là đọc sách khoa học và viễn tưởng. Khi đọc đồng chủ đề, độc giả đọc nhiều sách chứ không chỉ một cuốn và tìm mối liên quan giữa các cuốn sách đó cũng như mối liên quan đến chủ đề mà chúng cùng đề cập. Cuốn Opticks (Quang học) của Newton nói đến những thí nghiệm trong phòng với hình lăng trụ, gương và những chùm sáng được kiểm soát đặc biệt.
Ta chỉ nên sử dụng để xoá bỏ những mâu thuẫn về những điều là sự thật hiển nhiên. Đọc là học: Sự khác biệt giữa học thông qua giảng dạy và học thông qua khám phá Các mệnh đề trong lập luận thường được liên kết với nhau bằng các từ như: nếu (cái gì xảy ra), thì (kết quả sẽ); hoặc vì (điều này), nên (có điều kia); hoặc, từ đó suy ra, chúng ta có thể thấy…