Do đó, khi bàn luận về các quan điểm của một bộ phận nhỏ tác giả, chúng ta không thể dùng từ sự tiến bộ ngay cả khi các tác giả trong nhóm đó dùng từ này. Ngôn ngữ thể hiện các thuật ngữ, định lý và phương trình toán học thường không hàm chứa ý nghĩa về cảm xúc. Nếu sự hứng thú của bạn đối với cuốn sách mang tính thực tế, bạn sẽ muốn giải quyết vấn đề về phương pháp học đọc.
Khi một người nói sự thật là thì người đó hàm ý là mọi người nhìn chung nhất trí đó là sự thật, chứ không phải chỉ riêng anh ta hay một số người khác nhất trí như vậy. Đó là nó không chứa đựng các lý luận (trừ phi đó là những lý luận ngày nay được mọi người cho là đúng hoặc ít nhất là có giá trị lịch sử) và không có thơ phú hay các tác phẩm văn học viễn tưởng mặc dù nó có thể chứa các dữ kiện về thơ phú và các thi sĩ. Người nói hoặc người viết có kỹ năng tu từ tức là biết cách thuyết phục hoặc tạo dựng niềm tin nơi người nghe hoặc người đọc.
Nhiều tác phẩm lớn không chỉ có nội dung liên quan với nhau mà còn được viết theo một trình tự nhất định mà người đọc không thể bỏ qua. Lý do vì họ không biết làm thế nào để tập trung đầu óc vào những việc đang làm. Sau khi tìm ra các thuật ngữ và nhận định, độc giả phải phân tích các lý lẽ đi cùng.
Ví dụ, một bài báo chỉ dài ba trang về DNA nhưng không có bất cứ báo cáo thí nghiệm hay sơ đồ, công thức toán học nào thì độc giả vẫn phải nỗ lực hết mình. Ngày nay, người ta rất coi trọng các khoa dạy lịch sử khoa học, các nhà khoa học giỏi nghiên cứu và viết về lịch sử. Thậm chí, với một tác phẩm lịch sử phức tạp, ít nhất người đọc cũng biết là mình đang đọc lịch sử.
Trong phần này, chúng tôi sẽ nói kỹ về những câu hỏi này hơn là về các quy tắc đọc; đề cập đến quy tắc mới, ôn lại hoặc sửa đổi quy tắc cũ. Được mở mang tầm hiểu biết là biết thêm bản chất vấn đề: tại sao đúng, tại sao sai, những mối quan hệ của vấn đề với các dữ liệu khác,… Trong cấp độ đọc này, có một số vấn đề mất nhiều công sức để xử lý.
Tại sao họ có thể tỉnh táo đến thế? Đối với họ, có một sự khác biệt lớn giữa việc đọc hay không đọc cuốn sách họ đang cầm. Cuốn sách này là một ví dụ. Điều này không có nghĩa là kết luận rút ra lúc nào cũng đúng vì có thể có một hoặc tất cả các giả thuyết sai.
Vì thế, có thể khẳng định rằng chúng ta không nên và không thể đọc một cuốn sách nào một cách cô lập hoàn toàn. Hãy đọc chậm rãi và diễn cảm như thể đang có một thính giả nghe bạn và hãy cố gắng hiểu rõ từng từ ngữ bạn đang đọc. Điều này cho chúng ta một gợi ý nữa là những nhận định chủ chốt phải nằm trong các lập luận chính của cuốn sách.
Hiệu quả của việc đọc được xác định thông qua sự nỗ lực nhiều hay ít, và những kỹ năng đọc của độc giả. Chỉ khi bạn phân tách được tất cả các nhận định khác nhau thì bạn mới hoàn thành việc phân tích một câu quan trọng. Những nhà triết học không đặt câu hỏi giống của nhà khoa học, và họ cũng không sử dụng phương pháp tương tự để trả lời.
Thậm chí nếu tác giả chứng minh cho lập luận của mình bằng việc chỉ cho chúng ta cách tiếp cận nguồn thông tin cho những lập luận đó và những nguồn tài liệu đó hoàn toàn phù hợp, chúng ta vẫn cảm thấy tác giả đã hiểu nhầm chúng và đánh giá sai về chúng (có thể do tác giả thiếu hiểu biết về bản chất con người hay những vấn đề của con người). Một tác phẩm triết học suy luận hay lý thuyết sẽ mang tính siêu hình nếu nó chủ yếu bàn đến các câu hỏi về sự tồn tại. Những khác biệt trong phong cách sáng tác sẽ làm cho sự tiếp nhận của độc giả không giống nhau.
Thông qua các sách tham khảo, bạn có thể xác định các từ quan trọng khác hay không? Thứ hai, cho đến cuối thế kỷ XIX, những cuốn sách khoa học lớn đều chỉ dành cho những độc giả không chuyên. Ví dụ, sự phân tích về loại hình chính quyền trong tác phẩm Politics (Chính trị) của Aristotle là không hoàn chỉnh.