Chỉ khi đó, họ mới sẵn sàng nghiên cứu vở kịch kỹ hơn và cẩn thận hơn vì lúc này họ đã hiểu vở kịch đủ để nghiên cứu sâu hơn. Tuy nhiên, có rất nhiều cách nói có, vài kiểu nói không và ít nhất là ba cách khác nhau nói chúng ta không thể biết. Tính cần thiết đó vẫn giữ nguyên giá trị và khi tóm tắt luận điểm của một tác giả được trình bày, bạn phải dùng chính ngôn từ đó chứ không phải của tác giả.
Điều này không có nghĩa là sự bất đồng luôn là vấn đề nổi cộm trong mọi cuộc tranh luận. Cũng như từ điển, tất cả các cuốn bách khoa toàn thư đều là công cụ giáo dục và hàm chứa thông tin. Aristotle gọi cuốn Physics (Vật lý) của ông là một chuyên luận khoa học, mặc dù theo cách dùng hiện nay thì cuốn sách đó mang tính triết học nhiều hơn.
Nhưng những từ ngữ ấy rất hiếm khi được nói đến trong bài thơ. Những nghiên cứu như thế bắt đầu với việc Galileo sử dụng kính viễn vọng và ông đã phát hiện ra những mặt trăng của Sao Mộc. Với sách khoa học, câu trả lời cho câu hỏi này ngầm yêu cầu người đọc thực hiện một số hành động.
Xác định các vấn đề tác giả đã giải quyết, các vấn đề chưa được giải quyết. Cấp độ này khác hẳn cấp độ trước (đọc sơ cấp) và cấp độ đọc sau nó (đọc phân tích). Những cuốn sách hay phải cao hơn tầm hiểu biết của bạn, nếu không chúng sẽ không mang lại điều gì thú vị đối với bạn.
Ví dụ các câu hỏi mang tính lý thuyết sau: Vấn đề đó có tồn tại không? Nó thuộc loại nào? Tại sao nó tồn tại? Nó có thể tồn tại trong điều kiện nào? Nó phục vụ mục đích gì? Hậu quả do sự tồn tại của nó gây ra? Những thuộc tính đặc trưng của nó là gì? Mối liên hệ giữa nó và những vấn đề khác cùng loại hoặc khác loại như thế nào? Nó sẽ diễn biến ra sao? Hoặc những câu hỏi mang tính thực hành như: Nên tìm kiếm những mục tiêu nào? Lựa chọn phương tiện nào cho một mục đích cụ thể? Phải làm gì và theo trình tự nào để đạt được mục đích nhất định? Trong điều kiện hiện tại, làm thế nào là đúng hoặc tốt hơn nên làm gì? Trong hoàn cảnh nào thì làm việc này tốt hơn làm việc kia? Tuy nhiên, nếu bạn coi mọi thứ mình đọc quan trọng như nhau, và đọc tất cả với cùng một tốc độ thì không có sự trình bày nào là có ý nghĩa đặc biệt. Phần này cũng được chia thành nhiều phần nhỏ hơn:
Họ biết rằng chỉ sau một thời gian ngắn, họ sẽ biết danh tính từng người. Bạn nhận thức vấn đề dựa trên những hiểu biết sẵn có. Họ nghĩ rằng thể loại này thường rất khó, tối nghĩa, phức tạp, đòi hỏi quá nhiều sự chú tâm và nỗ lực từ người đọc.
Nhiều khi, chúng ta thích hay không thích một tuýp người này hơn tuýp người khác mà không biết tại sao. Do những giới hạn của yếu tố thời đại và sự thừa nhận sai lầm của ông về chế độ nô lệ, Aristotle đã không xem xét, thậm chí không hề có ý tưởng về nền hiến pháp dân chủ thật sự được xây dựng trên chế độ bỏ phiểu phổ thông. Hai cách giải quyết này mặc dù không đơn giản nhưng đều khả thi.
Nhưng tốt hơn là hãy đánh số bên lề cùng các dấu hiệu khác để biểu thị vị trí của các câu có thể tập hợp thành chuỗi. Họ sống là nhờ những yêu cầu mà công việc đặt ra cho trí não họ. Nhiều người cho rằng đọc và nghe hoàn toàn bị động so với viết và nói.
Nhưng luận cứ quy nạp vẫn được coi là đặc trưng cho khoa học. Khi đó, chân lý hay giải pháp cho vấn đề lại có trong cuộc thảo luận theo trình tự nhiều hơn là có trong bất cứ chuỗi nhận định hoặc khẳng định nào về nó. Sau khi đọc xong cuốn sách và ghi lại những chú dẫn của riêng bạn ở những trang cuối sách, hãy lật lại trang đầu và cố tóm lược cuốn sách thành một cấu trúc hợp nhất với một dàn ý cơ bản và theo trật tự các phần.
Suốt thế kỷ XIX, tại châu Mỹ, người ta chủ yếu dùng phương pháp ABC để dạy học đọc. Đối với những cuốn sách hay, các thuật ngữ thường được tác giả sử dụng điêu luyện. Bất cứ lúc nào, các quy tắc áp dụng cho việc đọc một tác phẩm văn học lớn nên để lại tác động hoặc hiệu quả nào đó ở người đọc như một trải nghiệm sâu sắc.