Việc đọc các tác phẩm triết học có những khía cạnh đặc biệt, liên quan đến sự khác nhau giữa triết học và khoa học. Trí tuệ không ngừng phát triển dù ở độ tuổi cụ thể nào, mà chỉ ngừng khi bộ não tự nó mất đi sự sáng suốt. Tác giả Galileo trong tác phẩm Two New Sciences (Hai ngành khoa học mới) đã nói về việc minh hoạ bằng các kết luận thử nghiệm rút ra từ phương pháp chứng minh kiểu toán học.
Các tác giả khác nhau thường sử dụng những từ ngữ khác nhau khi nói về cùng một vấn đề, hoặc những từ ngữ giống nhau khi đề cập đến những vấn đề khác nhau. 000 trang bị cắt chỉ còn mười hay thậm chí là một trang thì những gì bị cắt đi sẽ trở nên quan trọng. Nhưng đôi khi, việc thiếu các bước này lại gây ra nhầm lẫn hoặc thậm chí bị hiểu nhầm.
Khi mang tính tích cực, triết học không đơn thuần là suy luận, tức là suy nghĩ mà không có kinh nghiệm. Thế nhưng các quy tắc để tỉnh táo trong khi đọc không đơn thuần là làm ngược lại những điều trên. Ông không chỉ nêu những nhận định chính là định nghĩa, định đề và tiên đề của mình ngay từ đầu, mà còn ký hiệu mỗi nhận định được chứng minh.
Đọc chủ động đúng với tất cả các loại sách nhưng giữa tác phẩm mô tả với tác phẩm thơ ca, đọc chủ động lại đúng theo kiểu khác nhau. Tức là, bạn cần nhận thức được các vấn đề mà các nhà khoa học lớn đang cố gắng giải quyết cũng như nguồn gốc phát sinh ra chúng. Một tác phẩm triết học suy luận hay lý thuyết sẽ mang tính siêu hình nếu nó chủ yếu bàn đến các câu hỏi về sự tồn tại.
Nó có thể bắt đầu từ kết luận rồi nêu các lý lẽ để chứng minh kết luận đó. Một lập luận có thể được diễn đạt bằng một câu phức, hoặc bằng một số câu trong một đoạn văn, hoặc trùng với một đoạn. Trước khi bạn muốn có những chuyển biến hiệu quả trong kỹ năng đọc, bạn phải hiểu được sự khác nhau giữa các cấp độ.
Mỗi cuốn sách chỉ có một vài câu then chốt, nhưng không phải vì có câu then chốt mà bạn coi nhẹ các câu khác. Sau đây là sự tóm tắt các bước cần làm khi đọc theo cách này dưới dạng một đề cương. Đánh dấu vào sách là một cách biểu hiện ý kiến tán thành hay phản đối của bạn với tác giả.
Đối với những cuốn sách viết theo cách khác hoặc thuộc lĩnh vực khác, khi tác giả không tự chỉ rõ các từ chuyên môn thì độc giả phải tự khám phá dựa vào kiến thức của bản thân. Nguyên nhân của hiện tượng này là vì các nhà khoa học hiện nay quan tâm đến bản chất sự nghiệp khoa học hơn các nhà khoa học trước đây. Nói như trên không có nghĩa rằng sách của Commoner quan trọng, còn sách của Whitehead và Barnett thì không.
Khi đánh giá phê bình, bạn cần nêu ra cả ý kiến tán thành và ý kiến phản đối. Ngay cả lúc đó, chúng tôi cũng không khuyến khích bạn sử dụng từ điển nếu đó là lần đầu bạn đọc một cuốn sách hay trừ phi các từ đó có vai trò quan trọng nhằm hiểu ý của người viết. Có thể tóm tắt tính chất đặc biệt của việc phân tích cùng chủ đề được hướng tới trong bốn từ khách quan biện chứng.
Rõ ràng đây là vấn đề về tâm lý và nó có tác động đến hiệu quả của việc đọc một cuốn sách thực hành. Spinoza đưa khái niệm này đi xa thêm một bước nữa. Tác giả Galileo trong tác phẩm Two New Sciences (Hai ngành khoa học mới) đã nói về việc minh hoạ bằng các kết luận thử nghiệm rút ra từ phương pháp chứng minh kiểu toán học.
Nhiều tác gia hiện đại đã học tập cách này của Shaw nhưng cũng không thể sánh được với ông về hiệu quả mang lại. Nếu sau khi đọc xong một cuốn sách, bạn cảm thấy có một sự thôi thúc phải đi ra ngoài và làm một việc gì đó, hãy tự hỏi liệu cuốn sách đó chứa đựng thông điệp gì khiến bạn có những cảm xúc như vậy. Có thể nhờ đọc truyện, ta biết thêm vài điều về cuộc chiến.